1. Nêphelin
Nêphelin là loại felspar Natri đặc biệt.
- Ngoại quan : Ở dạng đá có màu trắng đục, mềm và dễ nghiền nhỏ.
- Thành phần khoáng : Na2 Al2O3. 2SiO2 , hàm lượng Na2O ≥ 12% là thành phần quan trọng để nephelin có nhiệt độ chảy thấp và có hệ số giãn nở nhiệt khá cao.
- Sử dụng : Trong men nền sẽ làm giảm độ nhớt của men, trong engobe để điều chỉnh hệ số giãn nở nhiệt của men.
2. Frít men
Khái niệm: Frít men là nguyên liệu chính trong bài phối liệu men, chúng được sản xuất từ các nguyên liệu thô, sau khi được nung luyện ở nhiệt độ cao và chuyển thành pha lỏng, sau đó được làm nguội nhanh đến nhiệt độ thường.
Phân loại Frít:
– Frít men trong : Frít sau khi nghiền mịn đem nung chảy ở nhiệt độ trên 10500C, được làm nguội nhanh. Khi quan sát bề mặt sẽ thấy men có độ trong suốt gần như thủy tinh.
– Frít men đục: Frít sau khi nghiền mịn đem nung chảy ở nhiệt độ trên 10500C, được làm nguội nhanh. Khi quan sát bề mặt men sẽ thấy men có màu trắng sáng và có độ bóng cao nhưng không nhìn qua được như thủy tinh.
– Frít men mờ (Frit men matt): Frít sau khi nghiền mịn đem nung chảy ở nhiệt độ trên 10500C , được làm nguội nhanh. Khi quan sát bề mặt men sẽ thấy bề mặt men có cảm giác hơi xốp, có màu trắng đục, có độ bóng thấp và cũng không nhìn qua được như thủy tinh.
– Frít men điều chỉnh: Có 2 loại Frit men điều chỉnh.
Frít men điều chỉnh nhiệt độ chảy của men. Thông thường mỗi loại men nền khi mua thường có ít nhất 2 loại Frít. Một loại có nhiệt độ chảy cao và loại khác có nhiệt độ chảy thấp. Khi sử dụng người ta dùng phối hợp 2 loại Frít theo tỷ lệ nào đó để có nhiệt độ chảy phù hợp với nhiệt độ nung của xương. Loại Frít sử dụng tỷ lệ ít hơn thường gọi là Frít điều chỉnh và chủ yếu là điều chỉnh nhiệt men nền.
Frít men điều chỉnh hệ số giãn nở nhiệt của men. Muốn có men nền phù hợp với xương để sau khi nung gạch có độ phẳng cao cần phải có Frít điều chỉnh hệ số giãn nở nhiệt cho men. Thông thường người ta sử dụng Frít để điều chỉnh men engobe, là lớp men trung gian giữa xương và men nền đồng thời cũng chính là chất trung gian giúp cho men nền phù hợp với xương.
Hình 16: frit điều chỉnh COE | Hình 17: frit engobe |
Một số tính chất của frit men:
– Hệ số giãn nở nhiệt của frit men (COE): là đai lượng đặc chưng cho sự biến đổi về thể tích khi có sự thay đổi về nhiệt độ
Trong sản xuất gạch ceramic việc lựa chọn frit men với COE phù hợp có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh mặt phẳng của sản phẩm sau nung
– Nhiệt độ chảy của frit (điểm chảy). Là nhiệt độ bắt đầu biến mềm của frit men. Điểm chảy quá thấp sẽ làm cản trở việc thoát khí trong xương khi nung làm cho sản phẩm dễ bị rộp, sôi men. Điểm chảy quá cao sẽ làm cho việc điều chỉnh độ bóng của lớp men khó khăn hơn
– Khoảng chảy: là khoảng nhiệt độ khi men bắt đầu biến mềm đến thời điểm men chảy láng. Khoảng chảy của frit men càng rộng thì việc điều chỉnh lò nung sẽ càng dễ dàng hơn.
– Các tính chất khác như: độ bóng, sức căng bề mặt, độ đục… cũng ảnh hưởng lớn đến việc lựa chon frit men trong sản xuất.
Bảng 6: Thành phần hóa của một số frit trong
Thành phần hóa học | Sản phẩm | ||||
Frit 1 | Frit 2 | Frit 3 | Frit 4 | Frit 5 | |
SiO2 | <67 | <62 | <60 | <70 | <50 |
AL203 | <7 | <5 | <11 | <5 | <15 |
K2O | <3 | <5 | <4 | <4 | <5 |
Na2O | <2 | <1 | <2 | <3 | <5 |
CaO | <15 | <13 | <9 | <12 | <6 |
MgO | <2 | <3 | <3 | <3 | <2 |
BaO | – | <3 | <10 | – | – |
ZnO | <8 | <10 | <16 | – | – |
B2O3 | <2 | <4 | <3 | <2 | <4 |
TiO2 | – | – | – | <12 | – |
ZrO2 | – | <6 | <3 | – | <10 |
Fe2O3 | <0.1 | <0.1 | <0.1 | <0.1 | – |
PbO | <0.001 | <0.001 | <0.001 | <0.001 | <8 |
3. Ôxít Ziecol và Silicat Ziecol (ZrO2 và ZrSiO4)
Các loại nguyên liệu này có tính chất rất đặc trưng là có độ trắng rất cao kể cả khi được nung ở nhiệt độ cao. Chính vì vậy Ziecol được sử dụng chủ yếu trong men để làm tăng độ trắng của men. Một tác dụng quan trọng khác là chúng được sử dụng khá nhiều trong lớp men engobe (men lót) tạo cho men lót có độ trắng đục không nhìn xuyên qua được để có tác dụng:
– Làm màu nền cho sản phẩm khi sử dụng men nền là men trong, bởi vì men trong là lớp thủy tinh có thể nhìn xuyên qua được nên màu của men lót sẽ là màu của sản phẩm khi sử dụng men nền là men trong.
– Xương gạch có thể có màu đỏ hoặc màu nâu đen nên men lót có Ziecol sẽ có tác dụng che màu của xương để có thể sử dụng men và trang trí màu trên sản phẩm đẹp không kém như khi sử dụng xương sản phẩm là xương trắng.
Loại nguyên liệu này hầu hết là nguyên liệu nhập ngoại của những nước như: Nhật Bản, Đức là những nước có nguyên liệu chất lượng cao, độ trắng cao nhưng giá rất đắt. Nước ta cũng đã sản xuất nguyên liệu này ở miền Trung nhưng chất lượng còn rất kém nên chưa được sử dụng nhiều.
Bảng 7: Thành phần hóa, phân bố hạt, đặc tính lý học của ziccon (Vũng Tàu)
4. Ôxít nhôm Al2O3
Ô xít nhôm cũng là loại nguyên liệu được sử dụng khá nhiều trong men nền và men engobe. Tác dụng chính của nguyên liệu này là làm tăng độ trắng của men (màu trắng đục). Ôxít nhôm sau khi nung ở nhiệt độ cao đến 12000C gần như giữ nguyên trạng thái tinh thể màu trắng đục và có tác dụng gần như Ziecol. Vì vậy có thể sử dụng ôxit nhôm để thay một phần nguyên liệu Ziecol trong men vì giá ôxit nhôm rẻ hơn nhiều.
Nguồn cung cấp: Nhập khẩu từ các nước châu Âu, Hàn Quốc , Nhật Bản và trong nước.
5. Màu, men cơ sở in trang trí
Men cơ sở in trang trí:
Là loại men dùng để trộn với màu tạo ra các tông màu khác nhau. Men cơ sở trang trí có độ mịn cao, cỡ hạt từ 20 ÷ 35 mm .
Phân loại:
Việc sử dụng men trang trí phải phù hợp với từng loại men nền. Men cơ sở in trang trí có 3 loại chính:
– Men in cơ sở trong.
– Men in cơ sở đục.
– Men cơ sở matt.
Màu trang trí
Khái niệm:
Màu sử dụng để trang trí trên gạch ốp lát thường là những ô xít màu đã được thiêu kết nung luyện ở nhiệt độ cao và được nghiền mịn với cỡ hạt ≤ 45 mm. Thông thường mỗi một loại màu là tổ hợp một số loại ôxit màu.
Phân loại:
– Màu thông thường: theo các tông màu cơ bản như: Xanh lơ, hồng sẫm, vàng và đen.
– Men màu đặc biệt: men phản quang. Có men phản quang trắng và men phản quang màu của kim loại.
Hiện nay ở nước ta sử dụng màu chủ yếu nhập ngoại của các nước như: Italy, Tây Ban Nha và gần đây màu của Trung Quốc đã đươc sử dụng thay thế hàng của châu Âu, tuy chất lượng màu chưa được tốt nhưng chủ yếu sử dụng để giảm giá thành sản xuất.
6. Các loại phụ gia
Phụ gia trợ nghiền
STPP (Sodium trypoly phosphat), thủy tinh lỏng, natricacbonat…
- Hàm lượng sử dụng: < 1,0 %, được đưa vào nghiền cùng bài phối liệu
- Tác dụng: Giảm thời gian nghiền, tăng độ linh động của hồ xương hoặc hồ men, giảm lượng nước sử dụng trong hồ xương từ đó giảm nhiên liệu tiêu hao trong quá trình sấy phun
Trong nước mới chỉ sản xuất được phụ gia trợ nghiền là thủy tinh lỏng, những loại khác chưa sản xuất được.
Khi sử dụng phụ gia trợ nghiền người ta thường dùng phối hợp cả STPP và thủy tinh lỏng theo tỷ lệ phù hợp, nhưng vẫn đảm bảo yếu tố kỹ thuật và kinh tế
Phụ gia liên kết: CMC (Cacboxyl Methyl Cenlulo)
Phụ gia liên kết là loại nguyên liệu nếu sử dụng một hàm lượng nhỏ trong khi nghiền hồ men làm cho khả năng liên kết giữa các hạt men tăng lên có nghĩa là làm cho độ nhớt của men tăng lên mà không cần phải tăng tỷ trọng của men.
Sử dụng phụ gia liên kết trong men sẽ có những tác dụng như sau:
– Men sẽ dễ tạo màng mỏng trên các thiết bị tạo màng mỏng để tráng men trên bề mặt mộc, màng men mỏng không bị rách và có độ dày đều và ổn định, sản phẩm sau tráng men đạt chất lượng và tỷ lệ mộc hỏng do tráng men sẽ thấp nhất.
– Làm cho men khi tráng có độ liên kết tốt và bám chắc với xương để khi thực hiện các thao tác in trang trí màu sắc trên bề mặt mộc không gây hỏng lớp men đồng thời giữ cho bề mặt mộc bóng và đẹp.
Phụ gia liên kết sử dụng chủ yếu trong men. Nguyên liệu sử dụng chủ yếu là CMC. CMC là hợp chất hữu cơ có phân tử hình sợi dài, khi các hạt men bị hút do lực tĩnh điện thành sợi dài khi tạo màng không bị rách màng. Mặt khác do là chất hữu cơ nên khi nung dễ bị cháy phân hủy dễ dàng không gây ảnh hưởng nhiều đến bề mặt của men. Tuy nhiên cần phải chú ý khi sử dụng CMC rất dễ bị vi khuẩn phân hủy làm hỏng men, do vậy men sau khi nghiền phải sử dụng và không được để lưu quá lâu hoặc phải sử dụng phụ gia bảo vệ CMC.
Phụ gia bảo vệ men
Phụ gia bảo vệ men còn được gọi là chất bảo trì men. Chất bảo trì thường là những chất độc có khả năng tiêu diệt vi khuẩn xâm nhập vào men để bảo vệ chất CMC có trong men. CMC nếu bị vi khuẩn phân hủy sẽ làm cho độ nhớt men giảm rất nhanh và sẽ gây ra hỏng men không sử dụng lại được.
Các loại phụ gia bảo vệ men cũng được nhập từ nước ngoài. Khi sử dụng phải lưu ý rất dễ gây dị ứng với người trên da và cần phải cách ly
Phụ gia trợ in
Phụ gia trợ in còn được gọi là dung môi dùng để nghiền với men màu tạo ra men in ở dạng hồ đặc sau đó in trang trí trên sản phẩm nhờ các thiết bị in như in lưới hoặc in ru lô.
Dung môi trợ in là hỗn hợp chất hữu cơ phải có tính năng sau:
– Có độ trơn để dẫn men qua lưới in và còn làm cho men in không dính lưới in.
– Phải có tốc độ khô khá nhanh theo yêu cầu công nghệ sản xuất.
– Không có tác động gây lỗi men.
– Tạo được độ bám dính chắc chắn giữa men in với men nền.
Dung môi trợ in trước đây chủ yếu nhập ngoại từ Italy và Tây ban nha, đến nay đã có một số cơ sở trong nước đã và đang nghiên cứu sản xuất và được sử dụng ở một số doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên chất lượng chưa đảm bảo yêu cầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét